Suy dinh dưỡng thai nhi trong tử cung

Trọng lượng thai nhi khi ra đời trung bình đạt từ 2500g đến 4000g. Giá trị này thường thay đổi tùy theo tình hình sức khỏe của cha mẹ, khả năng kinh tế – xã hội cũng như các đặc điểm chủng tộc, di truyền. Tuy nhiên, khi trọng lượng thai nằm ngoài giới hạn này, nghĩa là có vấn đề bất thường về dinh dưỡng và phát triển trong bào thai. Có thể là thừa cân (nếu trên 4000g) hoặc thiếu cân (nếu dưới 2500g). 

thai-nhi

Thế nào là suy dinh dưỡng thai nhi trong tử cung?

Sự phát triển của bào thai hoàn toàn thuộc vào người mẹ. Do đó, dinh dưỡng của trẻ trong bào thai hầu như phụ thuộc vào nguồn dinh dưỡng của mẹ qua ăn uống, tuần hoàn và quá trình trao đổi chất.

Suy dinh dưỡng thai nhi trong tử cung là hiện tượng trẻ sinh ra đủ tháng, nhưng cân nặng dưới 2,5kg. Nhìn bề ngoài, trẻ không khác một đứa trẻ đủ tháng nhưng vóc dáng bé nhỏ, da hơi nhăn nheo, khô và lớp mỡ dự trữ dưới da mỏng.

Phân biệt với trẻ đẻ non. Cả hai hiện tượng này đều giống nhau ở cân nặng của trẻ sau khi chào đời. Tuy nhiên, trẻ đẻ non còn liên quan tới yếu tố thời gian (tuần thai). Trẻ đẻ non khi ra đời từ tuần lễ thứ 22 đến hết tuần lễ thứ 36, cân nặng chỉ từ 1kg đến dưới 2,5kg, thậm chí chưa được 1kg. Trẻ đẻ non vóc dáng cũng nhỏ, lớp mỡ dưới da cũng ít nhưng da rất mỏng, có khi còn nhìn rõ các mạch máu ở phía dưới. Trên da còn mọc nhiều lông tơ. Bộ phận sinh dục ở con trai có thể tinh hoàn chưa xuống đến bìu (một hoặc cả hai bên), gan bàn chân trơn lì, rất ít nếp nhăn giống trẻ đủ tháng.

Các mức độ suy dinh dưỡng và khả năng sống sót của thai nhi

– Mức độ suy dinh dưỡng nhẹ: Những trẻ có vòng đầu bình thường là suy dinh dưỡng trong tử cung mức độ nhẹ, phần lớn là do mẹ bị bệnh cao huyết áp. Những trẻ này, khi trong thời kỳ bào thai, sự phân chia tế bào đã tương đối hoàn chỉnh, khối lượng tế bào bình thường, do đó vấn đề nuôi dưỡng không khó khăn lắm. Nếu sống qua được giai đoạn sơ sinh và nuôi dưỡng đúng cách thì sau này có thể phát triển tương đối bình thường về mặt tinh thần và vận động.

– Nếu suy dinh dưỡng trong tử cung ở mức độ trung bình: Trẻ có thể sống sót, nhưng khi sinh thường dễ bị ngạt, viêm phổi, chảy máu, hạ đường huyết. Lớn lên chúng có thể xảy ra một số nguy cơ như: chậm lớn, chậm phát triển về tinh thần và thậm chí còn có di chứng thần kinh.

– Mứa độ cao: Ngay trong bào thai đã có biểu hiện giảm rõ rệt số lượng tế bào trong cơ quan, chủ yếu là tế bào não. Trẻ có biểu hiện da khô nhăn nheo, vàng; viêm gan; nhiễm trùng hô hấp; đa hồng cầu, dung tích hồng cầu cao. Trẻ có thể bị chết trong giai đoạn sơ sinh do bị ngạt, viêm phổi, hít phải nước ối hoặc bị nhiễm trùng nặng. Những trẻ này thường hay bị dị tật bẩm sinh.

Nguyên nhân

Nguyên nhân gây ảnh hưởng dinh dưỡng thai nhi thường thuộc 4 nhóm:

– Từ phía người mẹ: Dinh dưỡng kém, bệnh lý nội khoa mãn tính, chất lượng tuần hoàn kém (trong các bệnh lý mạch máu, tim phổi), tiểu đường.

– Từ tình trạng tử cung: Do u xơ tử cung, tử cung dị dạng… làm giảm chất lượng dinh dưỡng.

– Từ bánh nhau: Xuất hiện các bất thường tại bánh nhau có liên quan đến hệ thống mạch máu, làm giảm tuần hoàn bánh nhau.

– Từ phía thai nhi: Xuất hiện những bất thường do di truyền hay do tình trạng nhiễm trùng bào thai, làm giảm khả năng hấp thụ chất dinh dưỡng.

Các nguy cơ có thể gặp khi bị suy dinh dưỡng thai nhi

Trong lúc mang thai: Thai có thể bị chết đột ngột do không lấy được oxy và chất dinh dưỡng.

Trong lúc chuyển dạ: Thai vẫn có thể chết do ngạt hay các sang chấn như: gãy xương, liệt thần kinh, xuất huyết não. ..

Khi trẻ ra đời: Đó là các bất thường về tiêu hóa, thường gặp là tình trạng hạ đường huyết, hạ canxi huyết hay gây vàng da trong giai đoạn sơ sinh.

Về lâu dài, có thể gặp tình trạng bất thường về các hệ cơ quan, rối loạn tiêu hoá, rối loạn dậy thì.

Chăm sóc trẻ suy dinh dưỡng

Nếu ở mức độ suy dinh dưỡng nhẹ, khả năng sống của thai nhi rất cao. Tuy nhiên cần phải lưu tâm hơn trong việc chăm sóc chúng, bởi trẻ yếu và sức đề kháng thấp nên có rất nhiều nguy cơ đe doạ. Ngoài việc chăm sóc, nuôi dưỡng tốt và đầy đủ như đối với trẻ bình thường, trẻ sơ sinh suy dinh dưỡng trong tử cung cần được quan tâm hơn về nguyên tắc vô khuẩn và sữa mẹ. Cụ thể hơn cần chú ý thực hiện thật nghiêm túc các điều sau:

– Mọi thao tác chăm sóc và nuôi dưõng phải đảm bảo sạch sẽ, vô trùng.

– Cần nuôi trẻ bằng sữa mẹ. Trường hợp bà mẹ không có sữa, hoặc vì lí do bệnh tật không thể cho con bú được cần cho trẻ “bú rình” người trong họ hàng đang cho con bú.

– Số lần bú hàng ngày phải nhiều hơn. Ba ngày đầu phải cho trẻ bú trên 20 lần/ngày (gần 1giờ/ lần). Từ ngày thứ 4 đến ngày thứ 7 cũng phải từ 12 – 15 lần/ngày. Sang tuần thứ hai, số lần có thể giảm xuống 8 – 10. Mỗi lần bú cho trẻ bú ít một, bú từ từ. Trường hợp trẻ không tự bú được phải vắt ra và cho trẻ uống.

– Phải luôn giữ ấm cho trẻ. Đi tất, gang tay, đội mũ cho trẻ. Ngoài ra có thể dùng các dụng cụ hỗ trợ điều hoà thân nhiệt như điều hoà, đèn sưởi. Tuy nhiên, trong tháng đầu người mẹ nên ấp ủ con trực tiếp vào ngực, bụng mình sao cho da mẹ và da con sát vào nhau để hơi ấm của mẹ truyền sang con, có thể sử dụng phương pháp “chuột túi”.

Cách phòng tránh

– Từ phía người mẹ: Như đã nói ở trên, việc mẹ thiếu chất dinh dưỡng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến thai nhi. Do vậy, bà bầu cần ăn uống các loại thức ăn giàu chất dinh dưỡng là điều cần thiết. Đồng thời, các chế độ làm việc, nghỉ ngơi cũng cần phải hợp lí để đảm bảo sức khoẻ cho cả mẹ và thai nhi. Nếu thai phụ bị mắc một số bệnh nằm trong danh sách không nên mang thai như: tim, viêm gan… hoặc các bệnh khác thì cần hết sức cẩn thận.

– Cần đến khám thai định kì: Bằng các kĩ thuật hiện đại, các bác sĩ có thể phát hiện ra sớm tình trạng trẻ bị suy dinh dưỡng. Chẩn đoán thường dựa trên việc xác định kích thước và trọng lượng thai nhi qua các chỉ số đo được bằng siêu âm. Các chỉ số này được so sánh với thông số bình thường (bảng bách phân) như: cân nặng, (cân nặng của thai phụ không tăng đủ mức trung bình), chiều cao tử cung (nhỏ hơn ở người có tuổi thai tương ứng), chu vi vòng bụng và chu vi vòng đầu. Các giá trị khác như: đường kính ngang bụng hay chiều dài xương đùi cũng được dùng để tham khảo. Thêm vào đó còn có thể căn cứ vào độ dày lớp mỡ một số vùng trên cơ thể. Khi tìm ra nguyên nhân họ có thể sử dụng các biện pháp can thiệp trên cơ sở cân nhắc mức độ nguy hiểm đối với mẹ và trẻ, đặc biệt là tương lai của trẻ sau khi chào đời.

– Một tin vui là nếu có chế độ nuôi dưỡng tốt sau một năm (hoặc có thể sau vài năm) trẻ bị suy dinh dưỡng vẫn có thể đuổi kịp những đứa trẻ bình thường khác nhờ tiến bộ của ngành khoa học di truyền. Người ta sẽ tiến hành điều trị bằng hormon tăng trưởng. Đa số trẻ sau khi điều trị đã cho kết quả khả quan, cải thiện rõ rệt về tầm vóc.

– Bất thường dinh dưỡng và phát triển của thai nhi theo hai hướng không đầy đủ, hay quá mức đều có tác động đáng kể đến sức khoẻ thai và diễn tiến của thai kỳ. Phát hiện sớm các tình trạng này thông qua chương trình khám thai đầy đủ và chặt chẽ sẽ giúp chúng ta có hướng can thiệp và dự liệu tốt. Số liệu tại Việt Nam năm 2005 đưa ra: 25% trẻ suy dinh dưỡng có nguồn gốc từ tình trạng suy dinh dưỡng bào thai.

Để có được những đứa trẻ khỏe mạnh, chúng ta hãy tích cực phòng tránh trẻ bị suy dinh dưỡng ngay từ khi trẻ còn trong bào thai.

Theo Mangthai

Leave a Reply

Or